Chi tiết tin

A+ | A | A-

Di tích Nghĩa trũng - Nghĩa hội Quảng Nam

Người đăng: Quản trị xã Tiên Phước Ngày đăng: 8:35 | 27/08/2025 Lượt xem: 99

Di tích Nghĩa trũng - Nghĩa hội Quảng Nam toạ lạc trong một thung lũng thuộc làng Tiên Phú Tây, tổng Tiên Giang, huyện Hà Đông, phủ Tam Kỳ (nay là thôn 1 Tiên Mỹ). Từ trung tâm huyện Tiên Phước ngược tuyến ĐH11 TP khoảng 3 km rẽ trái vào một con đường đất đi khoảng 2 km là đến di tích. Di tích cách trung tâm huyện lị khoảng 3 km về hướng Đông - Bắc (theo đường chim bay).

 

Ngày 23/5 năm Ất Dậu (1885), cuộc tấn công vào toà Khâm Pháp thất bại, Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm nghi chạy ra Tân Sở hạ chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước. Hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, cựu tiểu phủ sứ Nha Sơn Phòng Phường Xá là Trần Văn Dư đã cùng với những sĩ phu yêu nước trong tỉnh kết nhau làm Nghĩa Hội tập hợp quần chúng lập căn cứ kháng chiến ở khắp nơi. Tại Quảng Nam, Sơn Phòng Dương Yên từ lâu đã được phe chủ chiến xem như là một trung tâm chỉ huy thứ hai sau Tân Sở cho các tỉnh phía Nam kinh đô Huế, được Trần Văn Dư đặt đại bản doanh của nghĩa hội. Tại đây, Chánh Sơn Phòng sứ - chủ hội Trần Văn Dư đã phát đi bản thông đạt “thống thiết kêu gọi các bậc lương đống cựu thần, các giới sĩ, nông, công, thương tuỳ sức, tuỳ tài khởi binh kháng địch, tôn phò quốc tộ, giành lại giang sơn gấm vóc”.

Hưởng ứng lời hiệu triệu của Trần Văn Dư, nhân dân Quảng Nam nói chung, huyện Hà Đông nói riêng đã tích cực ủng hộ Nghĩa hội kháng Pháp. Cuối năm 1885 tình hình bất lợi cho Nghĩa hội, thực dân Pháp tìm mọi cách để tấn công, đánh phá các căn cứ và mục tiêu cuối cùng là Sơn Phòng Dương Yên - đại bản doanh của Nghĩa hội. Trước tình hình đó, Trần Văn Dư đã giao quyền chỉ huy Nghĩa hội lại cho phó bản Nguyễn Duy Hiệu, nghĩa binh rút về Trung Lộc (Quế Sơn) để kiện toàn lực lượng, còn Hội trưởng Trần Văn Dư về Huế chọn giải pháp ôn hòa. Tuy nhiên, trên đường về Huế, Trần Văn Dư đã bị giặc giết. Tháng 01/1886, Nguyễn Duy Hiệu dời đại bản doanh đến làng Thanh Lâm (nay là thôn 10 xã Tiên Thọ) với ý định xây dựng nơi đây thành căn cứ kháng chiến lâu dài. Gò Lòn, Gò Chay của xã Đức Tân (nay thuộc Tiên T họ) được Nguyễn Duy Hiệu sử dụng làm nơi trừng trị bọn do thám, trộm cướp. Nhân dân ở đây hưởng ứng hịch của Nguyễn Duy Hiệu đã thực hiện vườn không nhà trống. Nam giới tham gia vào các đội hương dũng quân, đoàn kết quân để chống Pháp. Cao điểm Dương Đế nằm giáp giới giữa xã Tiên Phong và Tam Phước (Tam Kỳ) án ngữ mặt trận Đông Bắc huyện Hà Đông, có 200 nghĩa quân dưới quyền Phan Văn Bình, về sau do Nguyễn Hàm chỉ huy với chức Tán lý Cần Vương. Cao điểm Dốc Miếu nay thuộc đất Tiên Thọ, đây là nơi đóng đồn của nghĩa quân Nguyễn Duy Hiệu do Hồ Đức Duật chỉ huy án ngữ mặt trận Đông Nam và hậu cứ của đại bản doanh Nà Lầu. Tại cao điểm Bàu Ông Trấn (nay thuộc Tiên Lộc) có đồn luỹ do 150 nghĩa quân trấn giữ, dưới quyền chỉ huy của Tán lý Lê Vĩnh Huy. Ngày 29/01/1886, binh lính Pháp do Henri de Berhair (Riviere) chỉ huy mở đợt hành quân tấn công các căn cứ của Nghĩa Hội, khi quân địch lọt vào trận địa đã bố trí sẵn (khu vực suối đá hiện nay), nghĩa quân bẫy đá từ trên cao lăn xuống và nã súng tới tấp, rồi xông ra dùng giáo mác, đánh xáp lá cà, tiêu diệt 150 quân địch và làm bị thương nhiều tên khác. Bị tổn thất nặng, địch phải rút chạy về Tam Kỳ.

Tháng 3/1886, Công sứ Pháp tại Đà Nẵng cho quân tấn công Nghĩa hội lần thứ hai, các Tán Lý của Nghĩa hội cho lực lượng về phòng thủ tại Đại An (nay là Tiên Cảnh) để phòng ngự, chỉ để mỗi chốt từ 10 - 15 người trấn giữ, mặc khác Nguyễn Duy Hiệu cho quân rải khắp bờ sông Tiên dụ giặc qua sông để đánh. Tuy nhiên do tương quan lực lượng không cân xứng, tổ chức Nghĩa hội còn lỏng lẻo, vũ khí thô sơ trước áp lực rất lớn của địch. Vì vậy sau một thời gian cầm cự các chốt Dương Đế, và Đức Tân đã bị rơi vào tay giặc. Tại chốt Dốc Miếu, 8 chiến sỹ của Nghĩa hội đã bị địch giết hại, các ông Dương Bộc, Hồ Nghiễm, Phạm Hữu Minh đã vận động dân chúng mang thi hài các nghĩa sĩ về an táng, có 2 trong số các nghĩa sĩ đã hy sinh được thân nhân đến nhận xác đem về mai táng. Theo sự hướng dẫn của Nguyễn Đình Tựu và trợ giúp của nhân dân, các ông Bộc, Nghiễm, Minh đã mang 6 thi hài còn lại đem về mai táng trên Gò Cao - một khu đất bằng phẳng nằm dưới chân Non Gạch, cho đầu mộ hướng thẳng về Sơn Phòng Dương Yên, nhằm cổ suý cho tinh thần đấu tranh của nhân dân ta trong phong trào kháng Pháp, truy niệm anh linh những nghĩa sĩ đã bỏ mình vì nước. Đồng thời cho cất tại đây một nhà tụ kề bên những phần mộ này để có nơi thờ tự, ông Đoàn Lang, người có chân trong nghĩa hội nhà ở gần nghĩa trũng nhận phần chăm nom hương khói. Cuối năm 1886, thực dân Pháp tăng cường tấn công càn quét các căn cứ của Nghĩa hội, nghĩa quân tan rã, nhiều người trong số họ bị thực dân Pháp bắt bớ tra tấn, tù đày, có 5 nghĩa sĩ bị kết án tử hình và đem hành quyết tại Nà Tuần (nay thuộc Tiên Mỹ). Sau khi xử án, nhân dân trong vùng đã tìm cách đem thi hài các nghĩa sĩ về an táng. Tuy nhiên khi tìm đến nơi thì 3 thi hài đã bị mất xác, dân chúng mang 2 thi thể còn lại đem về an táng tại Nghĩa trũng bên cạnh phần mộ các nghĩa sỹ đã yên vị trước đó. Một số nghĩa quân của Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Lê Vĩnh Huy còn sống sót, tìm cách ẩn mình xây dựng cơ sở và nuôi chí kháng Pháp, nhờ vậy, nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở Quảng Nam nói chung, Tiên Phước nói riêng vẫn liên tục nổ ra. Năm 1916, cuộc khởi nghĩa tiến công chiếm phủ đường Tam Kỳ do Trần Huỳnh lãnh đạo bị thất bại, số người thương vong đưa về cũng được đem an táng tại khu vực Nghĩa trũng. Nghĩa trũng - Nghĩa hội Quảng Nam là nơi an nghỉ cuối cùng của các nghĩa sĩ đã bỏ mình vì dân, vì nước đã trở thành niềm tự hào không chỉ của người dân Tiên Phước mà còn là niềm tự hào của nhân dân cả tỉnh, cả nước. Nghĩa trũng - còn là chứng tích về một thời kỳ lịch sử bi hùng nhưng không kém phần oanh liệt, sự xả thân của những người con yêu nước trước sự tồn vong của xã tắc, giang sơn.

Để tưởng nhớ, tri ân các anh hùng, tử sĩ đã hy sinh vì nền độc lập tự chủ của dân tộc, hàng năm vào ngày 16 tháng 2 (âm lịch) nhân dân địa phương quyên góp tổ chức cúng tế, dọn, dẫy lăng đường và những phần mộ chỉ là những doi đất bằng phẳng- nơi an nghỉ cuối cùng của các nghĩa sĩ. Nằm trong một thung lũng xung quanh là rừng thông caribê và keo lá tràm bao phủ, do tác động của thời gian và điều kiện ngoại cảnh nên các nấm mộ đã bị trôi dạt, phần mộ không còn nấm mà chỉ là những luống đất hẹp được phân cách bằng những bờ đá. Năm 1938, để tỏ lòng tri ân những anh hùng nghĩa sĩ đã bỏ mình vì dân, vì nước và để khích lệ tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân địa phương, người dân nơi đây đã quyên góp xây dựng 1 lăng đường có diện tích xây dựng khoản 20 m2 bằng xi măng cốt thép. Lăng đường nằm trên một mô đất cao khoảng 50 cm so với các phần mộ. Gian chính diện khắc chữ “Đại sĩ”. Bức bình phong trước gian thờ đắp nổi hình Bạch Hổ trong tư thế dũng mãnh, phía trước vòng cổng còn hàng chữ “Đống xương vô định” được gắn kết bằng những mảnh vỡ của các loại sành sứ. Phần chính của lăng đường như vòng cổng, điện thờ, tường thành… vẫn còn khá nguyên trạng. Tuy nhiên, do tác động của điều kiện tự nhiên, chiến tranh tàn phá lại chưa được tôn tạo tu sửa nên lăng đường đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Sau khi được UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2006 theo Quyết định 2024/QĐ-UBND ngày 19 tháng 6 năm 2009 của UBND tỉnh Quảng Nam, chính quyền địa phương đã cho gắn bia thông báo di tích và năm 2012 đã tiến hành tu bổ tôn tạo lại toàn bộ khu Lăng đường, xây dựng cổng ngõ và tường rào bảo vệ di tích.

Tác giả: BBT

Các tin cũ hơn:

icon

Tài liệu kỳ họp HĐND

icon

Nghị quyết HĐND

icon

Bản đồ hành chính

icon

Danh mục

icon

Thống kê truy cập

Tổng số lượt truy cập

000032476

Đang truy cập: 3
Hôm nay: 70
Hôm qua: 67
Tháng này: 5506
Tháng trước: 35