
Đối với lực lượng cách mạng, Tiên Phước - Phước Lâm là địa phương có nhiều căn cứ của Liên khu 5 và tỉnh Quảng Nam. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tiên Phước được Khu ủy Khu 5, Tỉnh ủy Quảng Nam xác định vừa là căn cứ hậu phương, vừa là căn cứ bàn đạp để các lực lượng vũ trang ta tiến xuống đồng bằng. Với tầm quan trọng đó, nên ngay từ đầu năm 1960, lực lượng cách mạng đã vũ trang đánh đồn Đồng Trại, hội đồng xã Tiên Hương. Năm 1961, mở chiến dịch vượt sông Tranh giải phóng Tiên Lãnh, Tiên Ngọc, năm 1962, mở chiến dịch vượt sông Tiên giải phóng Sơn - Cẩm - Hà xây dựng căn cứ địa cách mạng, bao vây quận lỵ Tiên Phước và tiến xuống đồng bằng. Có thể khẳng định Tiên Phước - Phước Lâm là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, hiểm yếu được Khu ủy 5, Tỉnh ủy Quảng Nam chọn làm căn cứ trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau ngày Hiệp định Paris có hiệu lực, qua phân tích tình hình trong nước và thế giới, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng tháng 01/1975, thông qua quyết tâm, kế hoạch chiến lược cơ bản giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc trong 2 năm 1975 - 1976. Bộ Chính trị còn nêu rõ phải chuẩn bị một phương án hành động khác là: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, căn cứ vào mệnh lệnh sơ bộ của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; Thường vụ Khu ủy, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 5 soạn thảo kế hoạch tác chiến dịch. Ở chiến trường đồng bằng ven biển, bộ đội chủ lực Quân khu tập trung trên 2 hướng: Hướng chủ yếu là Tây Nam Quảng Nam, mục tiêu chủ yếu là chi khu quân sự quận lỵ Tiên Phước - Phước Lâm (mật danh A1); hướng quan trọng là đường 19 đoạn An Khê - Bình Khê. Riêng chiến trường Tây nguyên là chiến trường trọng điểm của toàn miền Nam do tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ huy; mục tiêu chủ yếu là thị xã Buôn Mê Thuột. Qua công tác trinh sát chuẩn bị chiến trường, đánh giá thực lực quân Ngụy, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 5 nhận định nếu đánh cụm cứ điểm Suối Đá trước thì toàn bộ quân địch ở Tiên Phước - Phước Lâm sẽ bị ta khóa chặt; nếu chi khu quân sự quận lỵ Tiên Phước bị tiêu diệt thì Phước Lâm sẽ không có lực lượng chi viện. Địch thất thủ ở cả 2 cụm cứ điểm Suối Đá và Tiên Phước thì các cứ điểm khác sẽ nhanh chóng tan rã. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh tiền phương quân khu quyết định tập trung lực lượng chủ lực gồm: Sư đoàn 2, Lữ đoàn 52 bộ binh, hai Trung đoàn pháo binh 572 và 368, Trung đoàn pháo cao xạ 573 phối kết hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích... đồng loạt tấn công tiêu diệt chi khu quân sự quận lỵ Tiên Phước, Phước Lâm và cụm cứ điểm Suối Đá trong vòng 36 giờ và đây là trận mở đầu cho chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Sở chỉ huy chiến dịch đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Chánh (tức Bình), Phó Tư lệnh và đồng chí Đoàn Khuê (tức Trình), Phó Chính ủy quân khu. Sở chỉ huy chiến dịch phân công cụ thể cho từng đơn vị như sau. Hai Trung đoàn 31, 38 Sư đoàn 2 có nhiệm vụ tiêu diệt chi khu quận lỵ Tiên Phước; Trung đoàn 36 tiêu diệt cứ điểm Hàn Thôn, bao vây bức hàng quận lỵ Phước Lâm; Lữ đoàn 52 tiêu diệt cụm cứ điểm suối Đá. Trung đoàn pháo binh 572 chi viện hoả lực cho Lữ đoàn 52; Trung đoàn pháo binh 368 chi viện hoả lực cho hai Trung đoàn 31, 38. Trung đoàn pháo cao xạ 573 sẵn sàng đánh trả máy bay địch bảo vệ đội hình chiến đấu ở khu vực Tiên Phước và Suối Đá. Trung đoàn 1 (Ba Gia) dự bị chiến dịch.
T heo sự chỉ đạo của Khu ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 5, đầu tháng 02/1975, Tỉnh ủy Quảng Nam họp tại thôn 1 xã Tiên Sơn đánh giá tình hình và ra Nghị quyết nhấn mạnh: “Động viên sự nỗ lực lớn nhất của Đảng bộ, Lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh cùng với bộ đội chủ lực quân khu thực hiện mục tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá hủy phương tiện chiến tranh, giải phóng quận lỵ Tiên Phước - Phước Lâm và các vùng Đông - Tây Thăng Bình, Bắc Tam Kỳ tạo thế bao vây tỉnh lỵ Quảng Tín”. Từ ngày 26 đến 28/02/1975, Huyện ủy Tiên Phước họp triển khai nghị quyết của Tỉnh ủy, thảo luận, bàn kế hoạch hành động; phân công các đồng chí Thường vụ và Huyện ủy viên chỉ đạo củng cố các đội công tác, huy động nhân dân tham gia chiến dịch. Lực lượng du kích các xã ngày đêm tích cực luyện tập nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật sẵn sàng phối hợp với bộ đội chủ lực quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi. Ông Lưu Văn Chính, Bí thư Huyện ủy phụ trách chung toàn bộ các hoạt động chuẩn bị và thực hành chiến dịch giải phóng Tiên Phước. Trong những ngày chuẩn bị chiến dịch, huyện huy động nhân dân vùng giải phóng cùng bộ đội công binh ngày đêm sửa chữa, mở thêm một số tuyến đường phục vụ cho xe pháo chiếm lĩnh trận địa, vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm phục vụ bộ đội chiến đấu như: Ở cánh Bắc, từ Hiệp Đức, một tuyến xuống An Tráng đến Phước Cẩm; một tuyến qua Liệt Kiểm đến Phước Sơn. Ở cánh Nam, từ Trà My, một tuyến xuống Nước Trắng, Đá Bàn, Núi Chồng; một tuyến qua đèo Ba Hương xuống Tiên Lập, Tiên Phong, Tam Dân và một tuyến đi Hố Sâu đến Hàn Thôn. Trên dòng sông Khang thuyền bè xuôi ngược vận chuyển hàng phục vụ chiến dịch. Đêm ngày 08/3/1975, các đơn vị tham gia chiến dịch đã vào vị trí tập kết cuối cùng, chiếm lĩnh trận địa sẵn sàng chờ lệnh nổ súng. Nhưng 9 giờ sáng ngày 09/3/1975, trinh sát kỹ thuật của ta phát hiện Liên đoàn 12 biệt động quân của quân đội Sài Gòn từ Đà Nẵng đang hành quân về phía Nam, chiều ngày 09/3 đến căn cứ Tuần Dưỡng. Đúng 04 giờ 30 phút ngày 10 tháng 3 năm 1975, từ sở chỉ huy Sư đoàn 2 dưới chân cao điểm Dương Côn, Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn ra lệnh nổ súng tấn công địch bằng 2 phát pháo hiệu một đỏ, một xanh bắn lên bầu trời. Giờ G đã điểm. Theo kế hoạch, từ các hướng, tất cả các loại hỏa lực của ta khai hỏa, bắn phá các cứ điểm, chốt điểm của lính VNCH. Cả một thung lũng rộng lớn bổng chốc vang lên những tiếng nổ dồn dập, bùng lên những đám lửa của đạn pháo; toàn bộ hệ thống phòng thủ của quân đội Sài Gòn ngập chìm trong lửa đạn. Các đơn vị bộ binh tiếp cận mục tiêu, dùng mìn, bộc phá mở cửa tấn công quân địch đồn trú theo kế hoạch đã định. Trên hướng chủ yếu Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 38 được tăng cường một đại đội nhanh chóng quét sạch quân địch ở các điểm cao Núi Vú, Núi Ngọc, Dương Côn. Cùng lúc Tiểu đoàn 40 của Trung đoàn Ba Gia nhanh chóng triển khai đội hình từ điểm cao 310 đến điểm cao 269 hình thành thế chia cắt quân địch. Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 38 tiêu diệt gọn quân địch ở Hố Bạch, chiếm giữ các cao điểm từ Hố Bạch đến Suối Đá, Núi Vỹ hình thành tuyến chốt ngăn chặn quân địch từ Tuần Dưỡng phản kích lên Tiên Phước. Hai Tiểu đoàn 7 và 9 của Trung đoàn 31 tiêu diệt các cứ điểm đồi Trung Liên, Đồi Đá, đồi Không Tên, Dương Ươi, Hố Tre và cao điểm 215. Ở khu vực Suối Đá, các tiểu đoàn 8, 9 của Lữ đoàn 52 dồn dập tấn công địch ở các cứ điểm Gò Hàn, Cù Lao thôn 1, Phước Tiên, Dương Ông Lựu, Núi Vỹ, đồi Đất Đỏ, núi Dãy Thám, Hòn Nhọn, Dương Huê. Ở quận Hậu Đức (Phước Lâm), Tiểu đoàn 10, Trung đoàn 36 đánh chiếm các cứ điểm Cửa Rừng, Đèo Liêu; Tiểu đoàn 2 đánh chiếm Hàn Thôn. Sau hơn 4 giờ chiến đấu, lực lượng cách mạng đã phá vỡ thế phòng thủ liên hoàn chặt chẽ của quân đội Sài Gòn, tiêu diệt 23 cứ điểm, chốt điểm, hoàn thành việc cài then chiến dịch, hình thành thế bao vây các mục tiêu chủ yếu ở trung tâm quận lỵ Tiên Phước, Phước Lâm. Khi các đơn vị bộ binh vừa nổ súng, Tiểu đoàn 15 công binh của sư đoàn nhanh chóng dùng mìn, bộc phá..., san lấp những đoạn đường cuối cùng để đưa pháo vào trận địa. Đến 9 giờ ngày 10 tháng 3 hàng chục khẩu pháo 85mm, 105mm, 122mm chiếm lĩnh xong trận địa ở điểm cao núi Vú Em và núi Hàn Thôn.
T heo phương án cơ bản, khi Lữ đoàn 52 tiêu diệt xong các cứ điểm, trận địa pháo của địch ở Suối Đá, thì Trung đoàn 31 mới đánh chiếm quận lỵ Tiên Phước và cao điểm 211. Nhưng khi các đơn vị của Sư đoàn 2 tiêu diệt một loạt vị trí vòng ngoài, lực lượng quân đội Sài Gòn đã hoang mang dao động, hiện tượng tan rã bắt đầu xuất hiện. Thời cơ dứt điểm các mục tiêu chính đã chín muồi, Tư lệnh Sư đoàn 2 quyết định ra lệnh cho Trung đoàn 31 tấn công quận lỵ Tiên Phước và cứ điểm 211 trước khi Lữ đoàn 52 dứt điểm cụm cứ điểm Suối Đá. Cứ điểm 211 nằm phía Bắc quận lỵ Tiên Phước khoảng 1,5km, do một tiểu đoàn bảo an chốt giữ; phía Tây và phía Bắc có các mỏm đồi thấp và có những chỗ nhô ra, lợi dụng các mỏm này địch xây thêm một số chốt tiền tiêu để bảo vệ cứ điểm chính. Khu trung tâm có 42 lô cốt, 30 nhà lính cấu trúc nửa nổi nửa chìm, chung quanh có 5 lớp rào bằng kẽm gai bùng nhùng và nhiều bãi mìn để chống bộ binh ta tấn công. 11 giờ ngày 10/3/1975, hai trận địa pháo của ta ở cao điểm Hàn Thôn và núi Vú Em bắt đầu hạ nòng bắn thẳng vào từng mục tiêu lô cốt của địch ở cứ điểm 211 và quận lỵ Tiên Phước. Lợi dụng lúc quân địch đang bị pháo binh dìm đầu trong các lô cốt, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 31 chia thành 2 mũi vận động qua ấp chiến lược Phước Hòa đánh chiếm các tiền đồn Đồi Tranh - Yên Sơn ở phía Bắc và Tây cao điểm 211. Địch ở cứ điểm 211 hoàn toàn bị cô lập; hơn một nữa số lô cốt, công sự, nhà lính bị pháo ta bắn sập, một số lính trong cứ điểm hốt hoảng bỏ chạy về quận lỵ. 13 giờ 5 phút từ 2 hướng, đại đội 5 và đại đội 7 Tiểu đoàn 8 dùng bộc phá ống phá các hàng rào kẽm gai mở cửa tấn công vào trung tâm cứ điểm. 13 giờ 25 phút, đại đội 7 chiếm được 2 lô cốt đầu cầu, phân đội thọc sâu đánh vào trung tâm. Trên hướng Tây - Nam, địch lợi dụng sườn dốc đứng dùng hỏa lực bịt kín mọi con đường tiếp cận của đại đội 5. Đại đội trưởng cho bộ đội tạm dừng, ra lệnh hỏa lực ĐKZ 82mm, súng phóng lựu B41, B40 bố trí ở đồi Yên Sơn tập trung tiêu diệt các ổ đề kháng, hỏa điểm của quân địch ở tuyến tiền duyên lần lượt bị dập tắt. Hệ thống phòng ngự vòng ngoài của quân đội Sài Gòn bị phá vỡ, các chiến sĩ của hai đại đội 5 và 7 đánh vào khu trung tâm cứ điểm 211; tiểu đội thọc sâu của đại đội 7 cắm lá cờ chiến thắng trên nắp hầm chỉ huy; toàn bộ quân địch bị tiêu diệt và bị bắt sống. Hai tiểu đoàn 7 và 9 của Trung đoàn 31 áp sát quận lỵ Tiên Phước; khi tiểu đoàn 8 hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm cứ điểm 211, các đơn vị hợp đồng tấn công vào quận lỵ Tiên Phước. Hai đại đội 1 và 3 của tiểu đoàn 7, được hỏa lực đi cùng chi viện, bắn sập 2 lô cốt bảo vệ cổng chính ở phía Tây Bắc quận lỵ; cùng lúc đại đội 11 của Tiểu đoàn 9 từ Đông Nam đánh lên và đại đội 5 tiểu đoàn 8 từ cứ điểm 211 đánh xuống, các chiến sĩ bộ binh xung phong đánh chiếm trung tâm quận lỵ Tiên Phước. Đúng 16 giờ ngày 10/3/1975 Trung đoàn 31 đã làm chủ hoàn toàn quận lỵ Tiên Phước. Ác liệt nhất là mặt trận Suối Đá, nơi đặt sở chỉ huy của Liên đoàn bảo an 916. Đợt tấn công buổi sáng không thành, bằng mọi giá phải đánh tan cứ điểm này, 14 giờ ngày 10/3, các đơn vị tiếp tục đợt tấn công thứ 2. Sau 04 giờ chiến đấu liên tục, đến 16 giờ, ngày 10/3/1975, các mũi tấn công của quân cách mạng đã tiêu diệt hoàn toàn các mục tiêu, làm chủ trận địa. Phối hợp với các đòn tấn công của chủ lực quân khu, đơn vị C7 bộ đội địa phương huyện từ Phước Lộc (Tiên Lộc) đánh qua ấp Hữu Lâm của Phước Kỳ (Tiên Kỳ). Sau đó, phối hợp với chủ lực Trung đoàn 31 từ Phước Hòa (Tiên Châu) đánh vào trung tâm quận lỵ. Đơn vị C45 triển khai đội hình đánh chặn tàn quân Ngụy rút chạy qua núi Sấu xuống Tam Kỳ. Tại Phước Tân (Tiên Phong) C45 chặn đánh ban chỉ huy Liên đoàn 916 địa phương quân, diệt viên trung tá chỉ huy liên đoàn. Kết quả, chủ lực ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.505 địch; trong đó tiêu diệt 1.011 tên, bắt 991 tên, thu 779 súng các loại. Về phía ta, có 27 chiến sĩ hy sinh, 98 chiến sĩ bị thương. Riêng bộ đội địa phương huyện và du kích các xã đánh 26 trận, diệt 93 tên địch, bắt sống 310 tên. Tổng cộng loại khỏi vòng chiến đấu 403 tên, thu 102 súng các loại, gọi hàng gần 611 sĩ quan, binh lính, 318 cán bộ chính quyền Sài Gòn tại đây.
Cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn tại Tiên Phước được đóng tại Trung tâm quận lỵ Tiên Phước. Đây là một hệ thống nhà làm việc được xây bằng bê tông cốt thép, trên một diện tích rộng gần 3000m2. Là nơi đặt sở chỉ huy của chính quyền cũ. Cổng vào được xây bằng bê tông, cốt thép. Rộng 6m, cao 4.5 m. Trên vòm cổng có dòng chữ “Quận Tiên Phước”. Xung quanh là hệ thống tường bao được xây trụ bê tông và giăng dây kẽm gai dày đặc. Cổng lớn gồm hai cánh cổng sắt và chỉ mở khi có xe ô tô ra vào. Hai bên là hai cổng phụ có độ cao 2.5m, rộng 1.2m. Cổng ra vào có lính canh gác 24/24 giờ. Nhà làm việc của cơ quan quận lỵ là 1 dãy nhà cấp 4, được xây bằng bê tông cốt thép, lợp ngói. Nhà có chiều dài 25m rộng 12m. Phần chính giữa người ta xây dựng một nhõn tạo ra hành lang chính dẫn vào dãy nhà làm việc. Nhà nằm đối diện cổng chính, cách cổng chính khoản chừng 20m. Trong dãy nhà chính được bố trí phòng làm việc của Quận trưởng, Quận phó, phòng làm việc của các bộ phận giúp việc. Đây cũng là nơi đặt sở chỉ huy, thực hiện những chính sách cai trị, đánh chiếm của Ngụy quyền tại Tiên Phước. Sau năm 1975, cơ sở Quận lỵ Tiên Phước được chính quyền cách mạng tiếp quản. Toàn bộ cơ sở vật chất của chính quyền cũ được trưng dụng đặt trụ sở làm việc của chính quyền cách mạng lâm thời. Năm 1983, UBND huyện Tiên Phước đã dỡ bỏ toàn bộ công trình xây dựng của chính quyền cũ và xây dựng nhà làm việc của UBND huyện. Hiện nay, cơ sở vật chất cũng như những hạng mục công trình của cơ quan quận lỵ Tiên Phước trước đây không còn nữa. Trên nền nhà làm việc của chính quyền cũ, UBND huyện Tiên Phước đã san mặt bằng xây dựng sân Trung tâm hành chính của huyện. Dù đã bị tác động bởi các điều kiện xã hội không để lại di tích hiện hữu, nhưng địa điểm cơ quan quận lỵ Tiên Phước - điểm sào huyện cuối cùng bị thất thủ trong cuộc tấn công, nổi dậy trong chiến dịch giải phóng Tiên Phước - Phước Lâm là dấu ấn lịch sử quan trọng. Hằng năm, vào ngày này, huyện Tiên Phước tổ chức các sự kiện kỷ niệm, như tuyên truyền cổ động trực quan, tổ chức gặp mặt, nói chuyện truyền thống để giáo dục cho thế hệ trẻ. Đặc biệt những năm tròn, năm chẵn, huyện Tiên Phước luôn tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, sôi nổi hướng về sự kiện này, qua đó giáo dục truyền thống và kêu gọi nhân dân đồng tâm hiệp lực xây dựng quê hương Tiên Phước trong thời kỳ mới. Di tích này được UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 2256/ QĐ-UBND ngày 09 tháng 6 năm 2021.